Phục hồi và khai triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá Việt là một việc làm hữu ích và cần thiết cho sự sống còn và trường tồn của dân tộc…
Chúng ta cần cố gắng khai triển những giá trị này như một gợi ý làm sống lại tính nhân bản của dân tộc và đồng thời nỗ lực này cũng là một lời tha thiết mời gọi quý vị thức giả đóng góp vào công việc lớn lao là tái thiết đất nước Việt Nam thân yêu mà bất cứ một cá nhân đơn độc nào cũng không thể đảm trách nổi…
- Ý NGHĨA CỦA HIẾU ĐẠO
Việt Nam là một quốc gia nhỏ bé có một lịch sử trên bốn ngàn năm kể cả giai đoạn huyền sử, nằm sát bên cạnh một Trung Hoa vĩ đại về địa lý với một bề dày lịch sử khoảng hơn năm ngàn năm. Do đó, ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đối với Việt Nam là một điều hiển nhiên. Cũng như các quốc gia Tây phương chịu ảnh hưởng của văn hoá Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo.
Một lãnh vực nổi bật trong văn hoá là hệ thống giá trị, nghĩa là một hệ thống biểu tượng những cái hay, cái đẹp, những cái đáng được trân trọng làm nền tảng cho hành vi, cử chỉ, và lối sống của con người. Hệ thống giá trị chính của Trung Hoa trước năm 1949 được gói trọn trong khuôn khổ đạo Khổng và đạo Phật, nhất là đạo Khổng. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, sau năm 1949, Mao Trạch Đông đã hoán đổi hệ thống giá trị của Khổng giáo và Phật giáo bằng hệ thống giá trị của lý thuyết xã hội chủ nghĩa Mác-Lê lấy duy vật biện chứng làm nền tảng. Qua chủ nghĩa cộng sản, chính sách “tam vô” (vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo) đã xoá hầu hết những tiêu chuẩn giá trị của Khổng giáo và Phật giáo. Nói cách khác, ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam ngày nay, con người hầu như không còn một tiêu chuẩn giá trị nào làm nền tảng cho cuộc sống ngoài hiện thực cạnh tranh đầy bản năng về tiền tài, quyền lực, và hoạt động sinh lý. Sự băng hoại những giá trị đạo đức còn được thúc đẩy mau chóng và toàn bộ bởi sự thiếu vắng một cơ sở pháp lý đúng đắn, dựa trên nguyên tắc công bằng, ngõ hầu điều hướng hành động của con người vào con đường của lẽ phải. Không có một hệ thống giá trị làm nền tảng cho cuộc sống và không có một cơ chế pháp luật hữu lý và vững chắc để khống chế những hành vi tác hại đến trật tự và an sinh xã hội thì con người sống không khác gì con vật, chỉ dựa vào bản năng sinh tồn, và còn tệ hơn con vật ở chỗ con người còn có nhiều tham vọng mà các sinh vật khác không có. Với ảnh hưởng tiêu cực ồ ạt của một xã hội thiếu vắng một hệ thống giá trị có tính nhân bản thì dù cho còn sót lại những hành vi tích cực đi nữa, những hành vi này cũng chỉ là những đốm lửa tàn lụi dần, không đem lại được ảnh hưởng khả quan nào trên xã hội.
Do đó, phục hồi và khai triển những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt là một việc làm hữu ích và cần thiết cho sự sống còn và trường tồn của dân tộc. Chúng tôi sẽ cố gắng khai triển những giá trị này như một gợi ý làm sống lại tính nhân bản của dân tộc và đồng thời nỗ lực này cũng là một lời tha thiết mời gọi quý vị thức giả đóng góp vào công việc lớn lao là tái thiết đất nước Việt Nam thân yêu mà bất cứ một cá nhân đơn độc nào cũng không thể đảm trách nổi.
Cơ sở được sử dụng trong công việc phục hồi và khai triển hệ thống giá trị này chính yếu sẽ dựa vào ca dao, tục ngữ, các loại ca, vè dân gian và truyện cổ tích vì các thể loại văn chương bình dân này là tài liệu sống động thể hiện một cách hoàn toàn trung thực những hành vi, cử chỉ, và lối sống của đại đa số người dân Việt Nam.
Một trong những điểm đặc sắc của hệ thống giá trị này là chữ “hiếu”. Trọng tâm của bài này chỉ tập trung vào chữ “hiếu”. Những bài kế tiếp sẽ bàn về những lãnh vực khác trong hệ thống giá trị đích thực của dân tộc Việt. Khi nói đến hệ thống giá trị đích thực của dân tộc Việt, chúng tôi muốn nói đến những cái hay, cái đẹp, những cái được trân quý làm nền tảng cho cuộc sống của đại đa số người Việt như là một tập thể quốc gia.
Vậy chữ hiếu được hiểu và ứng dụng trong lối sống của người Việt như thế nào?
Trước khi nói đến xã hội người Việt, đại cương chúng ta cần phân biệt hai giai cấp xã hội. Một là giai cấp sĩ phu, giai cấp trước 1919, thông thuộc Tứ Thư, Ngũ Kinh, văn chương, thi phú, lịch sử, và quản trị công quyền. Họ là một thiểu số rất nhỏ chỉ sử dụng chữ Hán để trao đổi văn thư triều chính. Họ học văn chương và các kinh thi, kinh thư để được tuyển dụng làm quan qua các kỳ thi hương, thi hội, và thi đình. Nếu không thi đỗ để làm quan hoặc không muốn làm quan thì họ làm thầy đồ dạy dỗ một số con em ở các làng mạc vùng quê. Mãi cho đến năm 1918 thì cái học cũ được chính thức bãi bỏ và kỳ thi Hội cuối cùng xảy ra vào năm 1919. Cái học mới dùng tiếng Pháp và quốc ngữ thay thế cho chữ Hán. Tuy nhiên mãi đến 1932, triều đình mới ngưng việc dùng chữ Hán trong các văn thư và thay vào đó là chữ Pháp và chữ quốc ngữ. Dưới thời Pháp bảo hộ, chủ trương chính của giáo dục là đào tạo những người thông ngôn để làm việc cho người Pháp. Đến năm 1945 thì hệ thống giáo dục Việt Nam mới bắt đầu sử dụng quốc ngữ làm chuyển ngữ cho học thuật gồm các bộ môn phỏng theo chương trình giáo khoa của Tây phương. Những người theo cái học mới đa số cũng thoát thân từ những gia đình sĩ phu nho học cũ. Trong thành phần này, đa số học hết trung học và một thiểu số có trình độ đại học. Do đó, mặc dù phần nào có chịu ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây, con đường tiến thân của họ nói chung cũng không khác mấy những người đi trước, nghĩa là, nếu không làm quan thì cũng làm công chức cho chính phủ. Hai thành phần này trước 1975 chiếm một tỉ lệ dân số tương đối hết sức nhỏ. Nhưng họ là những thành phần thấm nhuần đạo lý theo rập khuôn khổ của Khổng giáo chính thống. Giai cấp thứ hai là những thành phần thuộc đại đa số quần chúng, những người bình dân buôn bán, những người làm công, làm thợ, hay nông dân mà đa số không được đi học hay có đi học thì chỉ một thiểu số rất nhỏ được học cao, nghĩa là khoảng cấp trung học, mà thôi. Những thành phần này mãi cho đến 1975 chiếm khoảng 90% dân số. Họ cũng chịu ảnh hưởng Khổng giáo qua sự dạy dỗ của các thầy đồ và các nhà sư ở trong làng. Tuy nhiên, ảnh hưởng này – trên phương diện thực hành — đi theo một chiều hướng đặc thù, rất khác với khuôn khổ quy ước của Khổng giáo chính thống. Và phương tiện hầu như duy nhất để chuyển đạt những ý nghĩ của họ về cuộc sống hằng ngày là ca dao, tục ngữ, các loại ca, vè dân gian, và truyện cổ tích.
Đối với giai cấp sĩ phu cũng như các hậu duệ trong chế độ học chính mới thì “hiếu” là bổn phận chính yếu của người con trai đầu lòng phải săn sóc, chăm lo phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già và còn sống. Khi cha mẹ đã mất thì phải lo xây lăng, đắp mộ, và cúng giỗ để nhớ đến công ơn của cha mẹ. Quan trọng nhất là người con trai còn có bổn phận phải sinh con trai để nối dõi. Không có con trai để nối dõi hay “tuyệt tự” là bất hiếu. Do đó, khi không có được con trai, người đàn ông thường cưới thêm vợ lẻ để có con trai. Ngoài ra, có một vài đòi hỏi có tính võ đoán như khi cha còn sống thì người con trai phải giữ lấy chí hướng của cha (“phụ tại quan kỳ chí”); khi cha mất, phải giữ phẩm hạnh của cha (“phụ một quan kỳ hạnh”); ba năm không đổi cái đạo -tính khí- của cha (“tam niên vô cải ư phụ đạo”); như vậy có thể nói là có hiếu vậy (“khả vi hiếu hỉ”).
Trong việc giai cấp thứ hai, tức đại đa số người dân Việt, thi hành ý nghĩa chữ hiếu như được thể hiện qua ca dao, tục ngữ và truyện cổ tích – là những phương tiện phản ánh lối sống chân thật của người dân — người ta khó tìm thấy quan điểm phức tạp như thế, cũng như khó tìm thấy yêu cầu bổn phận phải sinh con trai để nối dõi. Quá lắm thì người ta cũng chỉ có thể tìm thấy một hai câu như:
Và dĩ nhiên là câu ca dao này không hàm chứa ý nghĩa là phải có con trai để nối dõi. Nói cách khác, ý nghĩa của chữ hiếu đối với đại đa số người Việt không đòi hỏi bổn phận phải có con trai để nối dõi tông đường.
- Nhưng người bình dân trong việc thi hành ý nghĩa chữ hiếu đặt nặng sự kính trọng cha mẹ:
Ngay cả trong tình yêu đôi lứa, người đàn bà muốn người yêu của mình thường lui tới, thăm viếng mình. Tuy nhiên, trước khi gặp mình thì người đàn ông cũng phải chứng tỏ sự kính trọng đối với cha mẹ của người mình yêu trước đã:
Da diết hơn nữa là có trường hợp nhà người yêu cách nhà nàng chỉ có một quãng cách nhỏ, nên người đàn bà đã tỏ ý hờn trách chàng sao chẳng lui tới viếng thăm. Tuy nhiên, mặc dù yêu đương mặn nồng, nhưng người đàn bà vẫn không hề quên đặt cha, mẹ mình vào vị trí ưu tiên:
Và sự kính trọng đối với cha mẹ đã có lúc đạt đến đỉnh cao chót vót:
- Sự kính trọng này còn được thể hiện qua hình thức tang chế.
Tang cha, tang mẹ nặng hơn cả tang chồng. Đặc biệt trong văn hoá Việt là tang cha mẹ được biểu hiện không phải như là một bổn phận mà là một tình cảm sâu đậm của người đàn bà đối với cha mẹ của mình:
Đối với người đàn bà Việt Nam, cha mẹ mất đi không phải chỉ được chỉ dấu bằng vành khăn trắng trên đầu mà bằng cả một mối sầu nặng trĩu trong tâm hồn, nên nàng không thể đi tìm niềm vui của hạnh phúc đôi lứa.
Và cũng không có quy ước nào trong Khổng giáo bắt buộc người đàn bà khi mãn tang cha mẹ thì phải ra phần mộ tạ từ mẹ cha trước khi nghĩ đến hôn nhân. Đó là một hành động phát xuất từ tình thương sâu sắc đối với cha mẹ mình:
Và khi người đàn ông vượt quá giới hạn của sự kính trọng và tình thương của người đàn bà đối với cha mẹ mình thì người đàn bà sẽ phản đối ngay:
Và theo Khổng giáo quy ước thì giới sĩ phu đặt nặng tang chế cho cha mẹ của chính mình chứ ít khi nói đến nghi thức tang chế cho cha mẹ của người vợ. Mặc dù không có điều nào trong Khổng giáo chính thức tuyên bố là xem nhẹ hay không cần hiếu đạo đối với cha mẹ nhà vợ, nhưng Khổng giáo chỉ đề cập đến gia đình của người con trai mà thôi. Trên bàn thờ của những thế hệ cũ, người ta chỉ thấy bài vị bốn thế hệ của người cha mà không thấy bài vị cha mẹ của người mẹ. Nhưng trong thực hành của đại đa số người Việt bình dân thì chính người đàn ông cũng phải tôn trọng tang chế cha mẹ của người đàn bà:
- Chữ hiếu còn được thể hiện qua sự vâng lời cha mẹ, nhất là trong những quyết định về tình yêu đôi lứa hay quyết định về hôn nhân:
Khoan khoan bước tới thềm vàng,
Để em về thưa với thầy mẹ, biết có thương chàng hay không?
Anh đừng lên xuống uổng công,
ai nghe thầy mẹ nói không đi rồi.
Anh thương em còn sợ nỗi mẹ cha.
Thuở nay ăn mặc khó qua khỏi đầu.
Mẹ cha nghiêm khắc cùng mình,
Nên tôi ít lai vãng, mới nhạt tình đôi ta.
Anh thương em răng nỏ muốn thương,
Sợ lòng bác mẹ như rương khoá rồi.
Dù yêu đương tha thiết, ý kiến của cha mẹ luôn luôn là yếu tố quyết định:
- Đại đa số người Việt, đặc biệt là người đàn bà Việt, biểu hiện ý nghĩa chữ hiếu – không phải như là một bổn phận — mà bằng cách chứng tỏ tình thương sâu sắc và lòng biết ơn chân thành đối với cha mẹ.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước mong.
Rõ ràng cụm từ “ước mong” phản ánh một tâm thức ứ đọng tình cảm sinh động hướng về tương lai khả năng đền đáp công ơn của cha mẹ một cách tự nguyện vì tình thương và lòng biết ơn, và hoàn toàn không phản ánh những câu thúc có tính cách yêu sách của Khổng giáo chính thống. Cái triết lý biết ơn này không khẩn thiết phải luôn luôn được nối kết với công lao của cha mẹ vì có lúc cha mẹ cũng không hoàn thành được sứ mạng của mình. Sự biết ơn còn phát xuất từ ý niệm cội nguồn:
Biết ơn cha mẹ không phải chỉ vì công lao sinh thành, nuôi nấng, dạy bảo mà thôi mà còn vì tình yêu bao la của cha mẹ đối với con cái:
Do đó không biết ơn và đền đáp công lao của cha mẹ — đối với đại da số người Việt — không khẩn thiết phải bị mang lấy cái nhãn hiệu “bất hiếu”, một cụm từ bác học, trống rỗng về nội dung kinh nghiệm thực tế, mà bị kết án là một tên phản bội, một hình ảnh hiện thực đáng ghét trong cuộc sống hằng ngày:
Việc đền đáp công ơn cha mẹ, sự hy sinh bản thân cho cha mẹ, tình thương sâu sắc đối với cha mẹ không phải chỉ do ảnh hưởng của giáo dục mà còn do kinh nghiệm sống thực tế un đúc mà thành:
Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
- Ý nghĩa chữ hiếu còn được thể hiện qua hành động chăm lo cái ăn, cái mặc, sức khoẻ cho cha mẹ khi cha mẹ già, yếu. Những hành động này được thực hiện một cách vô điều kiện, khác với giới sĩ phu nho học thường hay đòi hỏi hoặc ước mong công thành danh toại rồi mới thi hành đạo hiếu.
Còn giới sĩ phu thì cũng trọng đạo hiếu, nhưng hình như họ chú trọng đến hình thức hơn là tình cảm chơn chất, đích thực của nội tâm vì đối với họ thì cần có điều kiện đủ mới thực hiện được đạo hiếu, nghĩa là phải công thành danh toại trước đã:
Hình như đối với giới sĩ phu, không đỗ đạt, không làm quan, không có tiền thì chưa thi hành hiếu đạo được. Nhưng người bình dân thì:
Nuôi cha mẹ mới là quan trọng chứ hoàn thành “đạo hiếu” thì người ta nói sao, đại đa số người dân Việt cũng nghe vậy mà thôi. Cái đạo hiếu của người làm con là chuyện thứ yếu, thực hành việc nuôi cha mẹ, bất kể giàu nghèo hay khó khăn, mới là điều đáng quan tâm:
- Quan niệm chăm lo, săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ lúc già, yếu còn được người Việt sử dụng như là một phương cách đối kháng lại sự chú trọng quá đáng về hình thức lễ nghi cúng giỗ không còn giá trị thực tiễn khi cha mẹ đã qua đời:
Những hình thức cúng giỗ nhiều khi quá tốn kém đối với người dân dã, đã đem lại một cảm nhận thật là chua chát đầy thách thức:
- Tuy nhiên, người bình dân không bài bác việc xây lăng, đắp mộ, và cúng giỗ cha mẹ. Họ hiểu rõ đó là những hình thái biểu lộ sự nhớ nhung, thương yêu, và biết ơn cha mẹ. Hình thức chuyển tãi nội dung: Hình thức là lăng mộ, cúng giỗ; nội dung là tình yêu thương và lòng biết ơn đối với cha mẹ, điều mà đại đa số người dân Việt thực sự trân quý.
Trăng rằm cũng nhắc nhở người ta lo âu, nhớ đến việc cúng giỗ cha mẹ:
Dù nghèo khổ đến đâu, người dân Việt cũng cố gắng xây lăng, đắp mộ để cha mẹ có một nơi an nghỉ thoả đáng và để lui tới tỏ lòng yêu thương, quý trọng:
Vì sự liên hệ tình cảm của
Sự nhớ nhung, thương yêu, quý trọng, biết ơn, và đền ơn cha mẹ đã vượt tới đỉnh cao của tôn giáo nên dân gian thường hay dùng từ ngữ thờ phụng:
II. LÝ DO CỦA HIẾU ĐẠO
Chúng ta vừa tìm hiểu ý nghĩa của hiếu đạo là gì và người Việt đã thi hành hiếu đạo như thế nào. Câu hỏi còn lại là tại sao người talại phải có hiếu?
- Con người có hiếu bởi vì biết ghi nhận công lao, nhọc nhằn của cha mẹ trong việc sinh thành, nuôi nấng, dạy dỗ và che chở cho con đến lúc trưởng thành.
Trong Ngũ kinh, có kinh Thi đề cập đến sự cần cù, lao lực (cù lao) của mẹ cha trong việc sinh thành và nuôi dưỡng con cái qua chín chữ: “cữu tự cù lao”, đó là: 1. sinh (生: cho con ra đời), 2. cúc (鞠:nuôi dưỡng), 3. phủ (撫:vỗ về), 4. dục (育:dạy dỗ), 5. súc (蓄: cho con bú), 6. trưởng (長:nuôi con khôn lớn), 7. cố (顧:chăm sóc), 8. phục (復:uốn nắn tuỳ theo tính tình), 9. phúc (腹:bồng bế, ôm ấp, che chở).
Trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật kể đến mười công đức của mẹ đối với con. 1. Chín tháng cưu mang khó nhọc, 2. Sợ hãi, đau đớn khi sinh, 3. Nuôi con cam chịu cực khổ, 4. Nuốt cay, mớm ngọt cho con, 5. Chịu ướt, nhường ráo cho con, 6. Sú nước, nhai cơm cho con, 7. Vui vẻ giặt đồ dơ cho con, 8. Thương nhớ khi con xa nhà, 9. Có thể gây tội vì con, 10. Nhịn đói cho con được no.
Đối với người bình dân, có lẽ đa số sẽ không nhớ được chính xác chín chữ cù lao là gì. Nhưng tất cả mọi người, trên thực tế, đều nhìn nhận được sự khó nhọc, cần cù, lao lực của cha mẹ trong việc sinh thành, nuôi nấng, dạy bảo cho con khôn lớn thành người. Do đó con cái biết ơn và tìm cách đền ơn cha mẹ:
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
- Con cái có hiếu vì sự hy sinh và tình thương bao la, vô bờ bến của mẹ: thức suốt năm canh khi con khóc, con đau, nằm bên ướt để bên ráo cho con ngủ.
Nước mắt chảy xuôi
Đố ai đếm được công lao mẫu từ.
- Mặc dù người bình dân không biết được khoa di truyền học cũng như ảnh hưởng của ngoại giới đối với việc tác thành khả năng và nhân cách của con cái theo quan điểm khoa học, nhưng qua kinh nghiệm sống họ ý thức được rõ ràng rằng những gì họ có được về khả năng là do huyết thống của cha mẹ để lại cọng với những điều kiện vật chất của ngoại giới và sự dạy bảo, un đúc của cha mẹ.
Trứng rồng lại nở ra rồng,
- Hiếu đạo có một tương quan nhân quả với tư cách của cha mẹ. Mặc dù Khổng giáo chính thống thường đề cao vai trò và ảnh hưởng của người cha, nhưng thiết nghĩ nếu cha mẹ, nhất là mẹ, nhân từ và có hiếu thì sẽ có những người con cũng có hiếu.
Phụ từ, tử hiếu
- Con cái có hiếu vì sự giáo dục của cha mẹ. Cha mẹ luôn luôn nhắc nhở con cái phải hiếu thảo vì công ơn trời biển của cha mẹ, không được phụ bạc ơn nghĩa của cha mẹ. Giáo dục là một yếu tố căn bản trong hành vi hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ.
Bể sâu không ví, trời cao không bì.
Một hình thức giáo dục đắc dụng là điều kiện hoá hành vi bằng cách ru ngủ ghi dấu ấn vào tiềm thức con trẻ. Dĩ nhiên là người bình dân không biết được phương pháp điều kiện hoá theo khoa tâm lý học, nhưng kinh nghiệm sống đã giúp họ biết giáo dục con cái theo phương thức không khác gì phương pháp này:
Ru con giữa buổi chiều đông,
Mẹ mày vất vả chân tay suốt ngày.
- Một lý do khác khuyến khích hiếu đạo là vì những người con có hiếu được xã hội quý trọng và ca ngợi. Đó là một phần thưởng tinh thần có giá trị mà ai cũng muốn nhận lãnh.
Những người hiếu để trung trinh,
III. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA LÝ THUYẾT KHỔNG GIÁO VÀ THỰC HÀNH TRONG DÂN GIAN NHƯ LÀ MỘT KHẲNG ĐỊNH VỀ GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC CỦA DÂN TỘC
Từ “giáo” trong Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo, được thông dụng trong dân chúng thường mang lại trong trí óc con người ý niệm về thần linh. Thực ra từ “giáo:教” chỉ có nghĩa là dạy dỗ. Và Khổng giáo là một ý thức hệ có mục đích giúp các vua chúa thời phong kiến có phương tiện trị an, một phương thức dàn xếp an ninh, trật tự xã hội bằng cách giáo dục dân chúng phải lấy lòng nhân ái và đạo đức làm nền tảng cho cuộc sống. Đây là phương thức thiết lập trật tự và an ninh xã hội bằng “đức trị”. Người đề bạt “đức trị” là Khổng Tử. Không tin vào bản tính thiện của con người mà chỉ tin là con người sinh ra với bản chất ác, Hàn Phi — người sống vào khoảng cuối thời Chiến quốc ở Trung Hoa vào lúc Tần Thuỷ Hoàng đang thống nhất đất nước – đã dề nghị, cũng với mục đích tạo dựng an ninh và trật tự cho xã hội, phương thức “pháp trị”, lấy luật pháp để trừng trị những hành vi ác độc của con người.
Trong thế giới văn minh, tân tiến ngày hôm nay, nhất là tại những quốc gia Tây phương, người ta quan sát được ảnh hưởng của cả hai xu hướng: “đức trị” và “pháp trị”. An ninh và trật tự xã hội được bảo tồn nhờ ảnh hưởng mang tính nhân bản và đạo đức của các tôn giáo và của giáo dục gia đình. Ảnh hưởng của nhân bản và đạo đức có mục đích khai triển tính thiện luôn luôn hiện hữu trong mỗi cá nhân. Mặt khác, một hệ thống pháp luật với tam quyền phân lập dựa trên nguyên tắc công bằng bảo đảm là an ninh và trật tự của xã hội không bị phá vỡ bởi tính ác tiềm tàng trong mọi người và có thể phát lộ bất cứ lúc nào.
Khổng giáo là một luận án về đạo đức mang tính triết học, nhưng đồng thời cũng là một phương tiện trị an của giai cấp phong kiến xưa, nên những điều khoản đề cập đến nhiều khi mang tính võ đoán, áp đặt, và kỳ thị, nhất là kỳ thị giới tính, của xã hội được sắp xếp theo hệ thống hệ đẳng. Vì Khổng giáo tôn vinh vị trí của người đàn ông nên đã có quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một người con trai là có, mười người con gái là không). Do đó,
- Người đàn bà Việt đối kháng việc phải nhận lãnh trách nhiệm một thân một mình phải lo việc hiếu đạo trong gia đình chồng, nhất là khi chồng đã đã quá cố bỏ lại người vợ cô đơn, lại còn phải đợi ba bốn năm tang chồng – một khoảng thời gian chiếm mất một phần lớn của tuổi xuân — mới có quyền nghĩ đến chuyện bước thêm bước nữa.
Có khi không phải vì chồng đã mất mà vì chồng không lo đảm trách công việc hiếu đạo, tronglúc hiếu đạo chính là bổn phận của người đàn ông, nên người đàn bà nhắc nhở như một hình thức đối kháng.
- Khổng giáo chính thống hoàn toàn đặt trách nhiệm chữ hiếu lên vai người con trai với những yêu cầu rất khắt khe.
2.1. Khổng giáo đòi hỏi khắt khe ở người con trai phải hiếu đạo như thế: “cha bảo chết là phải chết, nếu không chịu chết là bất hiếu”. Thế mà người ta lại ít nghe người đàn ông nói đến hiếu đạo mà chỉ thường nghe người đàn bà không những nhắc nhở người đàn ông phải hiếu đạo mà còn đặt hiếu đạo đối với cha mẹ của mình, chứ không phải cha mẹ của người mình yêu – của người đàn ông — như là một điều kiện cho hôn nhân.
Em còn chút mẹ, cậy chàng viếng thăm.
Để cắt nghĩa sự thoái thác thi hành hiếu đạo của mình, người đàn ông đã viện lý do việc công và còn nghiểm nhiên phát biểu là hiếu, trung đối với cha mẹ của mình quan trọng hơn hiếu trung đối với cha mẹ của người đàn bà.
Hiếu, trung bên anh anh còn bỏ, huống chi bên nàng, nàng ơi!
2.2. Tuy nhiên người đàn bà cũng luônluôn nhắc nhở người yêu phải hiếu đạo với cha mẹ của chàng trước khi nghĩ đến tình yêu đôi lứa.
Thời em mới dám kết duyên lành với anh.
Tiết thanh xuân em hãy còn đua nở, chẳng muộn thời anh lo.
2.3. Tiền bạc, chức tước, danh vọng đối với người đàn bà cũng không quan trọng bằng tình nghĩa và hiếu đạo.
Ơn cha nghĩa mẹ đạo đồng em theo.
2.4. Không những người con gái khuyên răn người yêu phải hiếu đạo đối với cha mẹ của chàng cũng như đối với cha mẹ của mình mà chính người con gái, thay vì người con trai — như yêu cầu của Khổng giáo–là người thi hành đạo hiếu đối với cha mẹ, một điều mà Khổng giáo không hề đòi hỏi, nhất là khi người con gái đã đến tuổi lấy chồng. Và đặc biệt là hiếu đạo ở đây phát xuất, không phải từ ý niệm bổn phận có tính cách công thức, mà từ tình yêu thương sâu đậm và chân thành đối cha mẹ. Thuý Kiều*, một thiếu nữ khuê các trong tuyệt tác văn chương của Nguyển Du, là một trường hợp điển hình của thực tế này.
Trong lãnh vực hiếu đạo, người đàn bà bình dân cũng không khác gì người thiếu nữ khuê các:
Thôi hỡi con ơi, cháo rau cho qua bữa, thịt với thà làm chi.
Và hiếu đạo này có nguồn gốc từ tình thương, chứ không phải chỉ vì yêu sách của Khổng giáo:
Anh cũng biết cho em còn mến nghĩa sanh thành mẹ cha.
Em đang lo hầu thầy mẹ cho tròn hiếu trung.
Em còn hai chữ hiếu trung chưa đền.
- Đối tượng của hiếu đạo rõ nét nhất thường là người mẹ. Dĩ nhiên là cả cha lẫn mẹ đều được nhắc đến trong ý hướng cũng như thực hành hiếu đạo. Tuy nhiên, người đàn bà nhắc đến mẹ nhiều hơn. Có lẽ đời sống của người đàn bà nặng tình cảm và dễ dàng cảm thông, gắn bó với sự gần gũi, nuôi dưỡng, săn sóc, vỗ về, lo lắng, và những công lao, hy sinh hằng ngày của người mẹ cho con. Do đó tình cảm nghiêng hẳn về phía người mẹ hơn là phía người cha. Hơn nữa, người cha thường lo công việc bên ngoài nên ít gần gũi con cái.
Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan.
- Và để có thể tiếp tục thi hành hiếu đạo, người đàn bà thườngao ước được lấy chồng gần nhà để có thể dễ dàng tiếp tục lui tới phụng dưỡng mẹ cha.
Bát cơm, đôi đũa, kỷ trà ai nâng?
Bát cơm ai đỡ, chén trà ai dâng.
- Sự giằng co giữa tình và hiếu: Khổng giáo chính thống đặt nặng trách nhiệm hiếu thảo lên vai người con trai đầu lòng và đòi hỏi người con trai phải xem nhẹ tình yêu đôi lứa hơn là hiếu đạo. Đây là một yêu sách có tích cách công thức bất khả nhượng của Khổng giáo, không xét đến tính nhân bản của tình yêu đôilứa cũng như không xét đến vị trí và thân phận đáng trân quý và tôn trọng của người đàn bà. Người bình dân Việt Nam đã chất vấn phạm trù này.
5.1. Tính bất khả nhượng của yêu sách này rất rõ nét trong quan niệm
Mất mẹ mất cha thật là khó kiếm, chớ đạo vợ chồng chẳng thiếu gì nơi.
Mất thầy, mất mẹ, khó kiếm, chớ đạo nghĩa phu thê thiếu gì.
5.2. Người bình dân không đối kháng quan niệm hiếu mà chỉ phản ánh sự giằng co giữa tình và hiếu,không phải như là một sự giằng co giữa bổn phận và tình yêu, nhưng là một sự giằng co giữa hai sức mạnh của hai thứ tình yêu khác nhau như là một thực tại hiện sinh.
Can trường đạo nghĩa biết chừng mô, bạn hè!
Làm sao cho đặng phụ mẫu già nuôi chung.
Vì ai bẻ khoá lìa tơ cho đành!
5.2. Trong cuộc giằng co này, có lúc tình yêu đối với cha mẹ đã chiếm ưu thế.Và ưu thế của hiếu đạo ở đây cũng không phải do sự vâng phục yêu cầu của Khổng giáo vì Khổng giáo chỉ đòi hỏi người đàn bà phục tòng người cha khi chưa lấy chồng, chứ không đòi hỏi người đàn bà phải ở độc thân để phụng dưỡng cha mẹ già. Đó là bổn phận của người con trai. Quyết định không lấy chồng để phụng dưỡng cha mẹ già rõ ràng là một sự tình nguyện phát xuất từ tình yêu thương đối với cha mẹ.
Kẻo cha mẹ thiếp trăm đường chờ mong.
5.3. Nhưng trong lãnh vực tình yêu đôi lứa, số lượng những câu ca dao, tục ngữ biểu lộ tình yêu thắng lướt hiếu đạo hay ít nhất là phản ánh một sự đối kháng tính câu thúc của đòi hỏi khắt khe của Khổng giáo trong lãnh vực hiếu đạo, nhiều gấp ba lần số câu chỉ dấu hiếu đạo thắng lướt tình yêu lứa đôi.
Tội trời thì chịu, không yêu bằng chồng
Biết ngày nào trả thảo mẹ cha.
Ở sao cho trọn tấm tình phu thê.
Cha từ, mẹ bỏ vẫn tìm theo anh.
Cho nên em phải lỗi với thung đường, anh biết không?
5.4. Trong tâm lý giằng co giữa tình thương cha mẹ và tình yêu lứa đôi, không những tình yêu đôi lứa đã tỏ ra là đã chiếm được vị thế ưu tiên, người bình dân còn đòi hỏi tình yêu có một chỗ đứng quan trọng, nếu không hơn, thì ít nhất cũng ngang bằng so với hiếu đạo.
Ơn cha không bỏ, nghĩa chồng không quên.
IV. TỔNG KẾT
Hiếu đạo qua lối sống của người Việt không phải là sự phản ánh của một công thức khô cằn của những giáo điều Khổng giáo, không phải chỉ là một bổn phận, mà chính yếu là một phản ứng tự nhiên của tình thương bắt gốc từ sự cảm nhận sâu sắc tình thương bao la của cha mẹ, sự khó nhọc và hy sinh của cha mẹ đã sinh thành, chăm lo, bảo vệ, nuôi dưỡng, và dạy dỗ con từ bé cho đến ngày khôn lớn.
Phản ứng đó được thể hiện qua sự biết ơn và đền ơn bằng tình thương dưới hình thức kính trọng, vâng lời cha mẹ, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già, yếu. Khi cha mẹ đã mất thì lo xây lăng, đắp mộ, và lo việc cúng giỗ để tỏ lòng nhớ thương cha mẹ.
Khi nói đến những hành vi hiếu đạo như thế, thoạt tiên người ta sẽ không nhìn thấy sự khác biệt giữa những giáo điều của Khổng giáo về đạo hiếu và những nét đặc thù của văn hoá dân tộc Việt. Nhưng nếu quan sát kỹ, người ta sẽ nhận thấy những khác biệt nền tảng rất rõ nét.
Điểm khác biệt nổi bật nhất là, theo Khổng giáo, hiếu đạo là bổn phận của người con trai. Nhưng qua hằng trăm ngàn câu ca dao, tục ngữ, những truyện cổ tích, người ta thấy rất ít khi người con trai nhắc đến hiếu đạo. Nếu người con trai có nhắc đến hiếu đạo thì hoặc là chỉ nói theo người đàn bà, hay là giới sĩ phu thường mơ tưởng đến ngày đỗ đạt, công thành, danh toại rồi mới thực hành hiếu đạo. Điều này chứng tỏ: một là giới sĩ phu có khuynh hướng trì hoãn hoặc ít thực hành hiếu đạo mà chỉ giao khoán công việc này cho người đàn bà, hai là họ quá chú trọng đến hình thức lễ nghi mà không chú trọng đến điểm cốt yếu của hiếu đạo là tình thương, điều mà người bình dân, nhất là giới phụ nữ hết sức chú trọng. Hình thức, mặc dù quan trọng, nhưng không quan trọng bằng tình thương. Do đó, đối với đại đa số người dân Việt thì chăm lo, phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ còng sống mới là quan trọng và họ phản đối sự quá chú trọng vào lễ nghi khi cha mẹ đã qua đời.
Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi.
Chết thì cúng giỗ mâm cao, cỗ đầy.
Điểm khác biệt nổi bật thứ hai là Khổng giáo giáo điều không hề đề cập đến bổn phận hiếu đạo của người con gái đối với cha mẹ, nhất là khi người con gái đã đến tuổi lấy chồng thì phải theo chồng và phục vụ nhà chồng, chứ không bao giờ đòi hỏi người đàn bà phải từ chối hôn nhân để phụng dưỡng cha mẹ mình. Trong thực tế cuộc sống của người bình dân Việt Nam, người đàn bà tự nguyện nhận lãnh trách nhiệm hiếu đạo đối với cha mẹ, ngay cả khi đến tuổi yêu đương hay lấy chồng mà cha mẹ già yếu, không người chăm nom thì vẫn cảm thấy ray rứt tình cảm, không đành lòng rời bỏ mẹ cha. Rất nhiều trường hợp, vì tình thương đối với cha mẹ, người đàn bà đã hy sinh tình yêu đôi lứa.
Nhảy thời đặng đó, còn thương mẹ già.
Vì mẹ già em dại, nên em đành ở ri.
Một đặc thù khác là người bình dân Việt, nhất là người đàn bà Việt, thực hành hiếu đạo như là một biểu hiện của sự biết ơn và của tình thương sâu sắc đối với cha mẹ, chứ không phải chỉ đơn thuần như là một bổn phận phải đền đáp lại công ơn.
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau.
Người ta có thể phản biện là hai mươi bốn (24) tấm gương sáng trong Nhị Thập Tứ Hiếu không nói lên tình yêu đối với cha mẹ hay sao. Đúng là những nhân vật nêu lên trong Nhị Thập Tứ Hiếu đã làm những việc đòi hỏi nhiều hy sinh cho cha mẹ; những việc làm này có thể chứng tỏ đó là tình yêu thương đối với cha mẹ, nhưng cũng có thể chứng tỏ đó chỉ là hành động chu toàn bổn phận hiếu đạo một cách chu đáo, gương mẫu mà thôi. Hơn nữa 24 gương sáng này tiêu biểu cho Khổng giáo giáo điều vì trong 24 trường hợp thì có đến 22 trường hợp vinh danh người đàn ông; chỉ 2 trường hợp nói về người đàn bà và hai người đàn bà này cũng chỉ hiếu đạo đối với cha mẹ chồng, theo khuôn mẫu của Khổng giáo giáo điều. Người ta không thấy trường hợp nào vinh danh người phụ nữ hiếu đạo với cha mẹ mình như rất nhiều trường hợp đã được thể hiện qua văn chương bình dân Việt Nam. Trong Nhị Thập Tứ Hiếu, Trường hợp Đường thị nuôi mẹ chồng bằng sữa mình vì mẹ chồng già nua không còn răng để ăn uống bình thường được. Trường hợp Khương thị thì phải đi gánh nước đường xa cho mẹ chồng uống, bắt cá ở xa cho mẹ chồng ăn, và mời hàng xóm giúp vui cho bà. Trường hợp Đường phu nhân thật ra không hẳn là một vinh danh vì trong phong tục của người Tàu, những gia đình giàu có thường mướn những người đàn bà nghèo khổ vừa có con dùng sữa của họ để nuôi sống cha già của mình. Trường hợp Khương thị có thể chỉ là một huyền thoại hoặc cố ý thêm bớt, vì câu chuyện kết thúc là sau khi Khương thị khổ cực gánh nước đường xa nhiều lần thì tự nhiên xuất hiện một suối nước ngọt ngay cạnh nhà có đầy cá tươi. Điển Khương thị, do đó, mang sắc thái của một cấu trúc rất khiên cưỡng. Nhị Thập Tứ Hiếu được Quách Cư Nghiệp sưu tầm và viết ra vào khoảng đời nhà Nguyên (1260-1369) với mục đích nêu lên những tấm gương sáng hiếu đạo. Tuy nhiên, tài liệu này cũng chỉ khẳng định giáo điều về bổn phận hiếu đạo của người con trai và xem nhẹ vai trò của người phụ nữ.
Để đối kháng lại tính võ đoán và giáo điều này của Khổng giáo, người phụ nữ Việt Nam đã chứng minh là người con gái cũng hiếu đạo đối với cha mẹ của mình và bao giờ cha mẹ còn cần đến sự giúp đỡ, phụng dưỡng, nhất là khi cha mẹ đã già, yếu mà không có người chăm lo thì đã có nhiều trường hợp người con gái tình nguyện từ chối tình yêu đôi lứa và hôn nhân để phụng dưỡng cha mẹ. Trong trường hợp người con gái đi lấy chồng thì lúc nào cũng ao ước được lấy chồng gần nhà để có thể tiếp tục lui tới giúp đỡ, phụng dưỡng mẹ cha.
Không những người phụ nữ tình nguyện nhận lãnh trách nhiệm hiếu đạo đối với cha mẹ mình mà còn yêu cầu người mình yêu phải hiếu đạo với cha mẹ của mình như là một điều kiện của hôn nhân. Trong lúc Khổng giáo chỉ đòi hỏi người con trai phải hiếu đạo đối với cha mẹ mình mà không hề đề cập đến việc người đàn ông phải hiếu đạo đối với cha mẹ của vợ mình, thì việc người đàn bà đặt điều kiện như thế là một sự đối kháng mạnh mẽ tinh thần “trọng nam, khinh nữ” (đặt nặng vai trò con trai, và xem nhẹ vai trò con gái), đồng thời khẳng định một sự công bằng hợp lý.
Thời em mới dám kết duyên lành với anh.
Quan điểm về chữ “tòng” qua hình thức vâng lời cũng bị người Việt chất vấn. Đành là hầu như người Việt nào cũng đồng ý là con cái khi còn nhỏ phải vâng lời cha mẹ.
Nhưng đối với người phụ nữ đến tuổi lấy chồng mà cha mẹ toàn quyền quyết định hôn nhân là một điều không hợp lý. Qua văn chương bình dân, người ta thấy lý do cha mẹ phản đối thường là vì tham tiền, tham bạc, tham danh vọng, chứ không phải vì lý do hạnh kiểm hay tình yêu của người đàn ông đối với con gái mình. Do đó, như chúng ta đã thấy, người đàn bà đã đối kháng một cách quyết liệt phạm trù áp đặt này.
Một điểm hết sức trội bật và hoàn toàn khác biệt với yêu cầu của Khổng giáo chính thống là hiếu đạo, theo Khổng giáo, chú trọng nhiều đến người cha. Ngược lại, đa số người bình dân Việt, mặc dù vẫn ca ngợi công đức của cha, nhưng luôn luôn đề cao tình thương và sự hy sinh của người mẹ và thường xuyên nói đến tình thương nhớ của mình đối với người mẹ. Đây không phải chỉ là một phản kháng lại sự bất công của một cấu trúc xã hội “trọng nam, khinh nữ” mà còn là một khẳng định công khai về công lao và sự hy sinh của người mẹ đối với con cái. Do đó, đối tượng của hiếu đạo không phải chỉ đối với người cha và gia đình người cha mà còn phải đối với mẹ nữa.
Gối riêng ai sửa, chén trà ai nâng.
Một điểm cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là mặc dù Khổng giáo trao trách nhiệm hiếu đạo cho người con trai, nhưng trong thực tế, người con trai chỉ mang danh nghĩa hiếu đạo mà hiếm khi được thấy có những hành động thi hành hiếu đạo, ngoài hành động có tính cách nghi lễ. Người đàn bà, người dâu trong gia đình, mới chính là người thi hành tất cả những công việc hiếu đạo. Không biết trong xã hội xưa bên Tàu, đa số những người đàn ông có làm những công việc cực nhọc, hy sinh cho cha mẹ như trong các điển tích trong Nhị Thập Tứ Hiếu hay không. Chắc là không! Bởi vì thứ nhất, nếu đa số người Tàu thực hiện những điều này thì đã không cần phải có Nhị thập Tứ Hiếu; thứ hai là trong một xã hội chỉ “trọng nam” thì người đàn ông luôn luôn sử dụng uy thế của mình để trao công việc nặng nhọc cho người đàn bà. Không những thế, người đàn ông trong bối cảnh văn hoá Việt còn thường bê trễ trong công việc hiếu đạo đến nỗi người đàn bà phải thường xuyên nhắc nhở người đàn ông phải hiếu đạo.
Người phụ nữ Việt Nam đã đối kháng lối hành sử độc đoán của người đàn ông hoàn toàn giao khoán cho người đàn bà một thân một mình phải lo toan mọi công việc chăm nom, phụng dưỡng cha mẹ chồng lúc già, yếu cũng như lo chuẩn bị mọi công việc cúng giỗ trong gia đình chồng. Sự phản đối này là một tiếng chuông cảnh tỉnh người đàn ông phải thay đổi thái độ để cùng san sẻ với người vợ của mình những hành vi hiếu đạo đối với cha mẹ của mình cũng đối với cha mẹ của người mình đã từng thệ nguyện suốt đời chia bùi sẻ ngọt cũng như chia đắng nuốt cay. Đồng thời hành vi san sẻ này còn chứng tỏ quyết định đánh đổ sự bất công của ý thức hệ Khổng giáo dựa trên hệ thống hệ đẳng chứa đựng nhiều bất công và kỳ thị giới tính chối bỏ bao công lao và hy sinh của người người mẹ Việt Nam và không ít trường hợp chà đạp nhân vị của người phụ nữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anh, Vân. Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: Nhà Xuất Bản Văn Học, 2015
Biền, Bửu. Câu Hò Tiếng Hát Xứ Huế. San José, CA, USA: An Tiêm Xuất Bản, 2002.
Hà, Ngọc. Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: Nhà Xuất Bản Văn Học, 2015.
Hải, Phúc. Ca Dao Việt Nam Đặc Sắc. Việt Nam: Nhà Xuất Bản Thời Đại, 2014.
Hằng, Nguyễn Bích. Ca Dao Việt Nam. Việt Nam: Nhà Xuất Bản Hồng Đức, 26 tháng 1 năm 2015.
Hiếu, Vương Trung. Tục Ngữ Việt Nam Chọn Lọc, Tập I. Việt Nam: Nhà Xuất Bảm Miền Nam, (không có năm xuất bản)
Tục Ngữ Việt Nam Chọn Lọc, Tập II. Việt Nam: Nhà Xuất Bảm Miền Nam, (không có năm xuất bản)
Kính, Nguyễn Xuân; Phan Đăng Nhật; Phan Đăng Tài; Nguyễn Thuý Loan và Đặng Diệu Trang. Kho Tàng Ca Dao Người Việt. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin, 2002.
Kính, Nguyễn Xuân; Nguyễn Thuý Loan; Phan Lang Hương và Nguyễn Luân. Kho Tàng Tục Ngữ Người Việt. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin, 2002.
______________, _________. Thi Ca Bình Dân Việt Nam II: Xã Hội Quan. Los Alamitos, Ca: Xuân Thu tái bản, (1970, năm viết xong tại Saigon, tái bản không có năm).
______________, _________. Thi Ca Bình Dân Việt Nam III: Vũ Trụ Quan. Los Alamitos, Ca: Xuân Thu tái bản, (1970, năm viết xong tại Saigon, tái bản không có năm).
_______________, _________. Thi Ca Bình Dân Việt Nam IV: Sinh Hoạt Thi Ca. Los
Alamitos, Ca: Xuân Thu tái bản, (1970, năm viết xong tại Saigon, tái bản không có năm).
Lân, Mã giang. Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: Nhà Xuất Bản Văn Học, 2014.
Loan, Ngô Thanh và Nguyễn Tam Phù Sa. Thành Ngữ Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam. Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, 2006.
Long, Nguyễn Tấn và Phan Canh. Thi Ca Bình Dân Việt Nam I: Nhân Sinh Quan. Los Alamitos, Ca: Xuân Thu tái bản, (1969, năm viết xong tại Saigon, tái bản không có năm).
Ngọc, Nguyễn Văn. Tục Ngữ Phong Dao(Tái bản). Fort Smith, Ark: Sống Mới, 1978.
Nhóm Trí Thức Việt. Tục Ngữ Ca Dao Dân Ca Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: Nhà Xuất Bảm Văn Học, 2015.
Phan, Vũ Ngọc. Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam(in lần thứ 11, có sửa chữa và bổ sung). Hà Nội, Việt Nam: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1998.
Phương, Thạch và Ngô Quang Hiền. Ca Dao Nam Trung Bộ(Tái bản lần thứ hai có sửa chữa). Việt Nam: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 12 tháng 4 năm 2002.
Sơn, Đặng Thiên. Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Dân Trí, 2016.
Thản, Đào. Ca Dao Hài Hước(Tái bản và có bổ sung). Việt Nam: Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin, 8/2001
Thục, Nguyễn Đăng. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, Tập 1-6(in lần thứ 2). Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998.
Văn, Kiều. Tình Yêu Trong Ca Dao, Tục Ngữ, Dân Ca. Đồng Nai, Việt Nam: Nhà Xuất Bản Tổng Hợp Đồng Nai, 2009
….
CƯỚC CHÚ:
*Thuý Kiều: Nguyễn Du viết Đoạn Trường Tân Thanh lấy cảm hứng từ Kim Vân Kiều Truyện của một tác giả người Tàu tên là Thanh Tâm Tài nhân. Kim Vân Kiều Truyệncủa Thanh Tâm Tài nhân có nguồn gốc từ Kí Tiểu Trừ Từ Hải bản mạt, một câu chuyện có thật, do Mao Khôn ghi lại, “được viết đi viết lại như Lý Thuý Kiều truyện của Đới Sĩ Lâm, Vương Thuý Kiều Truyện của Dư Hoài, v.v…” (Lê Hữu Mục, Phạm Thị Nhung, Đặng Quốc Cơ. Truyện Kiều với Tuổi Trẻ, Toronto, Canada: Làng Văn, 1998). Nội dung của những truyện này chủ yếu chỉ nói đến việc Thuý Kiều, một người đàn bà tài hoa bị Từ Hải, một tướng giặc phản loạn, bắt và yêu mến. Sau đó Thuý Kiều bị Hồ Tôn Hiến dụ dỗ để bắt Từ Hải giết đi. Sau khi bị bắt đánh đàn hầu rượu cho Hồ Tôn Hiến, Thuý Kiều lại bị ép buộc lấy một tù trưởng dân tộc thiểu số và Thuý Kiều đã nhảy xuống sông tự vẫn. Những ký sự này không hề nói đến việc Thuý Kiều bán mình chuộc cha. Thanh Tâm Tài nhân, một tác giả không tên tuổi trong nền văn học Trung Hoa, đã viết lại thành một tiểu thuyết dài 20 hồi khoảng cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, với chủ điểm là 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thuý Kiều, với nhiều tình tiết giống với Đoạn Trường Tân thanh của Nguyễn Du. Có giả thuyết (Đại Nam liệt truyện chính biên) cho rằng nhân đi sứ ở Trung Hoa năm 1813, Nguyễn Du bắt gặp tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài nhân, cảm khái hoàn cảnh của Thuý Kiều, đã sáng tác Đoạn Trường Tân Thanh. Ngoài tài văn chương tuyệt kỹ của Nguyễn Du, một địa hạt vượt quá giới hạn của một đoạn chú thích ngắn, độc giả cần lưu ý điểm chủ chốt của Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du là minh chứng thuyết “Tài Mệnh tương đố,”: “Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
Trong văn học Trung Hoa, người ta ít thấy tác giả nào nói đến chữ Hiếu của người đàn bà. Trường hợp Thuý Kiều là một trường hợp hi nữu, nhưng lại rất phù hợp với tâm lý người Việt, nhất là phụ nữ Việt luôn luôn tỏ lòng hiếu thảo bằng tình thương sâu sắc đối với cha mẹ. Do đó, người đàn bà Việt Nam rất yêu truyện Kiều. Rất nhiều phụ nữ Việt Nam chất phác thuộc làu truyện Kiều. Ngược lại, hầu như chẳng có người đàn ông bình dân Việt Nam nào thuộc làu được truyện Kiều cả.
Trần Minh Cường – Sưu tầm