Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – Nhà tiên tri lỗi lạc nhất trong lịch sử Việt Nam. Nguyễn Bỉnh Khiêm, tên huý là Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân am cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16 …
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, được dân gian truyền tụng và suy tôn, là nhà tiên tri số 1 của Việt Nam. Người Trung Hoa thì coi ông, là “An Nam lý số hữu Trình tuyền”, để lại cho hậu thế, 487 câu sấm ký, gọi là “Sấm Trạng Trình” cách đây đã trên 500 năm. Điều kỳ lạ, là không ít sự kiện lịch sử Việt Nam, và thế giới, đã xảy ra trong suốt 500 năm qua, có không ít điều, đã “ứng” vào các câu, ghi trong “Sấm Trạng Trình”.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhà tiên tri đầu tiên được mọi người biết đến là Thiền sư Vạn Hạnh (938-1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý.
Hơn 500 năm sau, xuất hiện Trạng Trình – nhà tiên tri thứ hai. Ở Pháp, cùng thời với Trạng Trình có nhà tiên tri Nostradams (1503-1566) sinh trưởng ở thành phố Saint Re’my thuộc xứ Provence. Trạng Trình sinh trước (1491) và mất sau (1586).
Năm 1986, kỷ niệm 400 năm ngày mất của Trạng Trình, người ta hay nhắc tới câu sấm tiên đoán về sự trở về của ông: “Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi – Sông Hàn nối lại thì tôi lại về”. Từ đấy, Trạng Trình trở về với thời đại chúng ta thực sự. Năm 1991, kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, đã có một lễ kỷ niệm trọng thể của Nhà nước diễn ra tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Năm nay, kỷ niệm 520 năm ngày sinh ông (1491-2011), chưa biết chúng ta sẽ làm gì, nhưng vào dịp cuối năm cũ (2010), cụ đã “gặp” nhà ngoại cảm tên Phương người Giồng Trôm, Bến Tre và chỉ cho ông tìm ra mộ thật của mình với ước muốn để cháu con và hôm nay biết đúng chỗ và thờ cúng. Theo chỉ dẫn của cụ, nhà ngoại cảm đã tìm được mộ cụ ở làng Triền Am, Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng.
Sinh thời, Trạng Trình cùng bạn thần đồng Bùi Ngu Dân (thường gọi là Bùi Công) thường rủ nhau bàn định bấm đoán về vận nước. Hay tin Mạc Đăng Dung muốn thoán ngôi vua Lê, cặp tri kỷ cùng nhau đoán định. Trạng Trình thì viết vào lòng tay thất ngôn tứ tuyệt: “Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh – Can qua xứ khổ đao binh – Mã đề dương cước anh hùng tận – Thân dậu niên lai kiến thái bình” (Cuối năm rồng, đầu năm rắn xảy ra chiến tranh – Nạn binh đao ở khắp mọi nơi – Cuối năm ngựa, đầu năm dê anh hùng mất hết – Qua năm khỉ, năm gà sẽ thái bình). Trong lịch sử quả thật, Mạc Đăng Dung đã thực hiện lập Lê Cung Hoàng lên ngôi, sau đó sai giết Lê Chiêu Tông vào năm sau năm Ất Dậu (1525) và đoạt ngôi vào năm Đinh Hợi (1527) lập ra triều Mạc. Bốn câu này khi vào tuổi già, Trạng Trình ghép vào trong bài sấm ký dài của mình thì lại được dùng để nhận định vào thời đại của chúng ta từ năm Canh Thìn (1940) đến năm Ất Dậu (1945).
Vào những năm Việt Nam hết sức rối ren giữa các thế lực nhà Lê với nhà Mạc, giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng, chỉ với 6 câu thơ tiên tri, Trạng Trình đã thu xếp được các thế lực vào đúng nơi trên đất nước khiến cho dân đỡ lầm than khổ sở trong nạn binh đao. Khi Nguyễn Hoàng xin ý kiến, ông đã tặng cho Nguyễn Hoàng hai câu thơ: “Hoành Sơn nhất đái-Vạn đại dung thân” (có bản đề là: “Khả dĩ dung thân”). Ý rằng hãy tìm đường vào phía Nam dựa vào dãy Trường Sơn mà tồn tại). Nguyễn Hoàng nghe theo xin Trịnh Kiểm vào trấn giữ từ Đèo Ngang trở vào. Khi người nhà Trịnh Kiểm hỏi ông về vị trí của mình, có nên thoán ngôi vua Lê không, ông trả lời: “Chịu khó mà thắp nhang- thờ Phật thì ăn oản” (Có nghĩa rằng phải thờ nhà Lê thì có lộc). Trước khi ông mất, nhà Mạc xin ý kiến tồn tại thế nào, ông đã đọc hai câu thơ: “Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn cô” (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa). Nhà Mạc đã theo kế ấy và đã tồn tại được thêm ba đời nữa thật.
Lại có giai thoại kể rõ, Quan Thượng Tứ – Tổng Đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình. Khi đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, Thượng Tứ xem xét cẩn thận, thấy Trạng Trình là thầy rất “cao tay” sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này. Sau khi bàn bạc với con cháu Trạng Trình, Thượng Tứ quyết để lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Khi đào đến gần hộp quách, thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: “Bát thập niên tiền khí chung vũ tả – Bát thập niên hậu khí nhập ư trung” (Tám mươi năm trước khí tốt bên trái – Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong).
Trần Minh Cường – Sưu tầm